Loạn dưỡng giác mạc khiến giác mạc trở nên mờ đục, nhìn mờ, cảm giác như có dị vật trong mắt, đau rát, kích ứng hoặc chảy nước mắt, nhạy cảm với ánh sáng.
Loạn dưỡng giác mạc (Corneal Dystrophy) là thuật ngữ chỉ một nhóm hơn 20 bệnh lý di truyền ít gặp, ảnh hưởng trực tiếp đến giác mạc – lớp mô trong suốt nằm phía trước nhãn cầu. Đặc trưng của nhóm bệnh này là sự thay đổi cấu trúc của mô giác mạc, khiến giác mạc trở nên mờ đục, làm cản trở đường đi của ánh sáng tới võng mạc, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị lực.
Theo ThS.BS Lương Thị Anh Thư, Trung tâm Mắt Công nghệ cao, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, bệnh có nhiều biểu hiện, trong đó phổ biến và nghiêm trọng nhất là suy giảm thị lực hoặc mất thị lực. Người bệnh có thể nhìn mờ, giảm độ rõ nét dù đã đeo kính gọng hoặc kính áp tròng. Tình trạng này xảy ra khi bề mặt giác mạc bị biến dạng hoặc mòn không đều, làm ảnh hưởng đến khả năng khúc xạ ánh sáng.
Đục giác mạc cũng là dấu hiệu điển hình của bệnh loạn dưỡng giác mạc khi protein hoặc lipid bất thường tích tụ trong giác mạc, cản trở ánh sáng đi qua giác mạc bình thường, dẫn tới giảm thị lực và tầm nhìn mờ đục. Một triệu chứng điển hình khác là cảm giác như có dị vật trong mắt. Nguyên nhân là do bề mặt giác mạc trở nên không đều hoặc bị tổn thương, khiến mí mắt cọ sát vào giác mạc khi chớp mắt, tạo ra cảm giác cộm, khó chịu kéo dài.

Êkíp bác sĩ đang phẫu thuật ghép giác mạc cho người bệnh. Ảnh minh họa: Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh
Một số người còn bị đau rát, kích ứng mắt, nhất là khi mở mắt sau giấc ngủ. Nhạy cảm với ánh sáng cũng khá phổ biến khiến bệnh nhân chói mắt, khó chịu khi tiếp xúc ánh sáng mạnh. Bệnh có thể gây chảy nước mắt bất thường do bề mặt mắt bị khô hoặc kích ứng, hệ thống tiết nước mắt phản ứng bù trừ. Trường hợp nặng có thể xuất hiện rung giật nhãn cầu – mắt chuyển động nhanh, không kiểm soát, gây ảnh hưởng đến khả năng định hướng.
Loạn dưỡng giác mạc chủ yếu do yếu tố di truyền, thường khởi phát từ khi mới sinh và kéo dài suốt đời. Hiện chưa có biện pháp nào ngăn ngừa hoặc giảm nguy cơ mắc bệnh. Điều trị loạn dưỡng giác mạc phụ thuộc vào loại bệnh cụ thể, tình trạng và mức độ ảnh hưởng đến thị lực. Ở giai đoạn nhẹ, người bệnh thường được chỉ định thuốc nhỏ mắt để bổ sung độ ẩm, làm dịu cảm giác cộm, đau; thuốc kháng sinh khi có nguy cơ nhiễm trùng; hoặc kính áp tròng đặc biệt nhằm bảo vệ và hỗ trợ làm lành bề mặt giác mạc.
Khi bệnh tiến triển, bác sĩ có thể thực hiện phẫu thuật quang trị liệu (PTK) bằng tia laser để loại bỏ vùng mô bất thường hoặc sẹo giác mạc, giúp cải thiện thị lực. Ghép giác mạc là lựa chọn cuối cùng với các trường hợp bệnh lý nặng.
Đây là bệnh mạn tính, tiến triển chậm nhưng có thể gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống. Bác sĩ Anh Thư khuyến cáo người bệnh cần khám mắt định kỳ để được theo dõi và điều trị đúng thời điểm, tránh biến chứng nặng nề. Người có tiền sử gia đình mắc loạn dưỡng giác mạc hay xuất hiện các triệu chứng bất thường tại mắt cần đi khám thường xuyên hơn.
Khuê Lâm
Độc giả gửi câu hỏi về bệnh nhãn khoa tại đây để bác sĩ giải đáp |